CN.4.MC.C
2Cr 5,17-21
Lc 15,1-3.11-32
BTM : Dụ ngôn
"Người Cha Nhân Hậu" trong BTM, chúng ta không lấy làm lạ, khi Thiên
Chúa yêu thương người tội lỗi. Trong Mùa Chay chúng ta nghe hoài lời Chúa sau
đây : "Ta lấy mạng sống Ta mà thề :
Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống"
Người cha nhân hậu, tức là Thiên Chúa, hằng ngày vẫn trông chờ "đứa
con hoang" trở về : "Anh ta còn
ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ
anh ta và hôn lấy hôn để" (Lc 15,20). Lại còn bảo đầy tớ : "Mau đem áo đẹp ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn
vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi bắt bê béo mở tiệc ăn mừng" (Lc
15,22-23).
Áo tượng trưng địa vị làm con. Nhẫn tượng trưng quyền hành. Khi Đức
Bê-nê-đíc-tô XVI từ chức, chiêc nhẫn giáo hoàng được đập nát. Giầy tượng trưng
người tự do, nô lệ không được đi giầy.
Thiên Chúa yêu thương như vậy. Còn loài người thì không. Loài người là
người anh cả. Khi ở ngoài đồng về đến nhà "nghe tiếng đàn ca nhảy múa" (Lc 15,25), được người đầy tớ chạy
ra cho biết "em cậu đã về và cha cậu
làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe" (Lc 15,27), anh liền
"nổi giận và không chịu vào nhà"
(Lc 15,28).
Bđ2 : Không phải ngày
nay Thiên Chúa mới thương loài người tội lỗi, mà ngay từ khi ông bà nguyên tổ
phạm tội, Thiên Chúa đã thương, đã hứa ban Đấng Cứu Thê để tha tội. Thiên Chúa
nói với con rắn "Ta sẽ đặt mối thù
giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy"
(St 3,15).
Trong bđ2, thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô : "Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ
Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hòa giải với Người" (2Cr 5,18).
Bđ1 : Thiên Chúa dùng
cái chết của Đức Ki-tô, Con Ngài, mà tha tội cho loài người. Cái chết của Chúa
Ki-tô được ví như con chiên Vượt Qua của dân Do-thái. Máu con chiên đã giải
thoát người Do-thái khỏi kiếp nô lệ Ai-cập, thì máu Con chiên Giê-su cũng giải
thoát loài người khỏi kiếp nô lệ ma quỉ, tội lỗi. Trong bđ1, sách Giô-suê, đã
nhắc lại lòng thương bao la của Thiên Chúa : "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập"
(Gs 5,9).
Đọc câu chuyện tổng thóng Chavez (Cha-vê) nước Venezuela (Vê-nê-du-ê-la)
trở lại, chúng ta thấy lòng Chúa thương những người tội lỗi biết là dường nào !
Tổng thống Chavez qua đời ngày 5-3-2013. Khi thông báo cho quốc dân biết về
cái chết của tổng thống. Phó tổng thống Nicolas Maduro (Ni-cô-la Ma-đu-rô) nói : "Tổng thống đã trở về với Chúa". Ông dùng cụm từ "clinging
to Christ" (bám lấy Chúa), để chỉ những hành động của tổng thống trong
tuần lễ cuối đời. Vào lúc lâm chung, tổng thống đã yêu cầu được phó linh hồn và
xin nhận bí tích xức dầu.
Một biến cố thật lạ lùng. Vì từ khi lên nắm chính quyền vào năm 1999, tổng
thống Chavez là một người hung hăng chống đối Giáo Hội. Năm 2002 tổng thống đã
gọi các Giám mục Venezuela là "khối ung nhọt" phá hoại các mục tiêu
cách mạng của ông. Đồng thời ông yêu cầu Tòa Thánh đừng can thiệp vào công việc
nội bộ đất nước của ông.
Chúng ta hãy chạy đến thánh Giuse, xin Ngài giúp chúng ta trở về với Chúa.
10-3-2013
------------
CN.4.MC.C
Thánh Phao-lô Hạnh đã được lãnh phúc tử đạo cũng do một thảm cảnh đau thương
của cuộc đời.Thánh Phao-lô Hạnh sinh tại Tân Triều, Biên Hòa. Cha mẹ đạo đức.
Lớn lên đến Chợ Quán buôn bán. Nghề buôn bán đã làm cho thánh Phao-lô Hạnh trở
thành kẻ gian xảo, cướp bóc. Lập băng đảng để ăn cướp và bắt chẹt những người
cô thế cô thân. Một lần kia, chứng kiến cảnh đàn em bóc lột một thiếu nữ nghèo
khổ. Thánh Phao-lô Hạnh động lòng, đứng ra can ngăn và bắt phải trả lại của cải
cho nạn nhân. Đàn em tức giận và nuôi lòng căm thù. Nó đi báo với nhà cầm quyền
: thánh Phao-lô Hạnh là người Công giáo và làm tay sai cho Pháp. Thánh Phao-lô
Hạnh bị bắt. Thánh Phao-lô Hạnh cảm nghiệm được lòng người, nhận ra được sự giả
trá của cuộc đời. Ra trước tòa, quan hỏi : “Anh
có phải là Ki-tô hữu không ?”. Ngài chẳng những nhận mình là Ki-tô hữu mà
còn nhấn mạnh : “Sẽ là Ki-tô hữu cho đến
chết”. Lính đã căng thân thánh Phao-lô Hạnh ra đánh đòn, lấy kìm kẹp vào
người, dùng thanh sắt nung đỏ dí vào người. Mọi cực hình chỉ làm cho thánh Phao-lô
Hạnh tin rằng : chỉ có Chúa mới là thật, là tốt lành. Ngày 28-5-1859 thánh Phao-lô
Hạnh bị chém đầu tại Chí Hòa. Giáo dân đem về chôn tại nhà thờ Chợ Quán.
Thánh Phao-lô Hạnh tin Chúa là
người cha nhân hậu, nên ngài sẵn sàng chịu mọi khổ đau, để được hạnh phúc thiên
đàng.
Nghe lời Chúa trong các thánh
lễ Mùa Chay, như những câu đáp ca chúng ta đọc, chúng ta hát, đều toát lên sự
dịu dàng, nhẹ nhàng, êm ái, yêu thương và tha thứ, chẳng hạn câu đáp ca chúa
nhật tuần trước : “Chúa từ bi và nhân hậu”,
câu đáp ca chúa nhật hôm nay : “Hãy
nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”, hay câu đáp ca chúa nhật tới : “Việc Chúa làm cho ta ôi vĩ đại ! Ta thấy
mình chan chứa một niềm vui”.
Ba bài sách thánh thánh lễ hôm
nay quả thật “Chúa từ bi nhân hậu”, “Chúa tốt lành”, “việc Chúa làm cho ta ôi
vĩ đại, ta thấy mình chan chứa một niềm vui”.
Bài TM : Còn hình ảnh nào
diễn tả lòng tha thứ yêu thương của Thiên Chúa bằng dụ ngôn “Người Cha Nhân
Hậu” trong bài TM.
Theo phong tục người Do Thái,
khi người cha qua đời thì mới được hưởng gia tài để lại. Người con thứ đã đòi
khi người cha còn sống. Làm như thế chẳng khác nào muốn người cha chết đi cho rảnh mắt. Thật là bất hiếu !
Gia tài chia cho đáng lý phải
được xử dụng vào những việc hữu ích, người con thứ lại phung phí trong rượu
chè, trai gái. Thật là tội lỗi !
Người con thứ biết mình chẳng đáng
làm con, làm người làm công cũng chẳng đáng nữa.
Thế mà người cha tha thứ tất
cả, còn đối xử như một người con. Mặc áo mới tức là trả lại địa vị làm con, xỏ
nhẫn tức là trả lại quyền làm con, xỏ giày vào chân tức là coi con là người tự
do, chứ không là người nô lệ.
Người cha đối xử với “người con
hoang đàng” không một chút hằn học, giận ghét. Trái lại ngưới anh cả đối xử với
người em đầy hằn học, ghen tị. Người anh không còn nhìn nhận là em mình, gọi
bằng một cái tên xa lạ “thằng con của cha”
(15,30), coi em là đứa đàng điếm chơi bời “nuốt
hết của cải với bọn điếm” (15,30)
Ghen với em vì cha đã giết bê béo mở tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa thì tốt lành; còn
loài người chúng ta thì thù hằn độc ác. Tình thương của Thiên Chúa không chỉ
diễn tả bằng lời nói, bằng hình ảnh, mà bằng những hành động cụ thể, những việc
làm cứu vớt. Với bđ1 hành động cụ thể là giải thoát dân Ít-ra-en khỏi ách Ai-cập.
Với bđ2 là sai Chúa Giêsu xuống thế cứu chuộc loài người.
Bài đọc 1 : Sách
Giô-suê kể chuyện dân Ít-ra-en được Thiên Chúa giải thoát khỏi kiếp làm nô lệ
người Ai-cập, được vào đất hứa, được cày cấy trồng trọt, và hôm nay họ được
hưởng dùng hoa mầu của Đất Hứa, được cử hành lễ Vượt Qua chính trên mảnh đất
của mình. Thiên Chúa nói với ông Giô-suê : “Hôm
nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập” (Gs 5,9a).
Bài đọc 2 : Dù con
người cố chấp chôi từ tình thương Thiên Chúa, mà chạy theo ma quỉ tội lỗi,
Thiên Chúa vẫn không bỏ. Thiên Chúa tìm đủ mọi cách để cứu vớt con người, giải
thoát con người khỏi nanh vuốt của ma quỉ tội lỗi. Cách cuối cùng là Thiên Chúa
sai Chúa Giêsu xuống thế, để chết cho tội lỗi loài người.
Thánh Phao-lô trong bđ2 đã xác
quyết với các tín hữu Cô-rin-tô : “Thiên
Chúa đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta hòa giải với Người…Người không còn chấp
nhận tội nhân loại…Đấng chẳng biết đến
tội lỗi, thì Thiên Chúa đã biến Người
thành hiện thân của tội lỗi” (2Cr 5,18.19.21).
Và thánh Phao-lô kêu gọi chúng
ta bỏ đàng tội lỗi mà trở về với Thiên Chúa : “Chúng tôi nài xin anh em hãy lo cho mình được hòa giải với Thiên Chúa”
(2Cr 5,20).
Nhưng dễ chi làm cho một người
tội lỗi trở lại với Thiên Chúa, dễ chi làm cho một người từ bỏ điều xấu để làm
những điều tốt, dễ chi làm cho một người ác sống hiền lành thánh thiện. Bao
nhiêu lần chúng ta khuyên bảo, bao nhiêu lần chúng ta năn nỉ, vẫn như nước đổ
lá khoai, nước đổ đầu vịt.
Sống trên đời con người luôn bị
cám dỗ làm điều xấu, muốn làm điều tốt cũng không nổi. Chỉ có ơn Chúa, chỉ có
sức mạnh thiêng liêng mới cứu vớt được người tội lỗi.
Xin thánh Giu-se giúp đỡ chúng
ta.
14-3-2010
------------
CN.4.MC.C
Chúng ta hãy chạy đến thánh Giu-se, xin Người giúp chúng ta trở về với
Chúa, với ”người cha nhân hậu”.
Thường người ta gọi bài TM Chúa nhật hôm nay là câu chuyện “Người Con Hoang
Đàng” và người ta cũng ít khi để ý đến phần thứ hai, phần “Người Con Cả”. Vì
thế, người ta chỉ đọc được ý nghĩa sám hối trở về của người con thứ, mà không
khám phá ra tấm lòng thương yêu của người cha; đồng thời người ta cũng không
nhận ra sự nhẫn tâm, hẹp hòi của người con cả.
Theo luật Do-thái, khi sắp qua đời, người cha chia giai tài cho các con
trai. Người con cả được 2/3 gia tài, người con thứ được 1/3. Người cha còn đang
sống, vậy mà người con thứ đòi chia giai tài, thì chẳng khác nào muốn cha mình
chết quách đi cho rồi !
Khi ăn tiêu hết sạch, trong vùng lại xảy ra nạn đói, người con thứ đành
phải đi ở cho một người dân trong vùng,
nghĩa là cho người ngọai giáo. Đối với người Do -thái, người ngọai giáo là kẻ
thù, là người thuộc ma qủi. Làm đầy tớ cho kẻ thù, cho ma qủi thì chẳng còn giá
trị gì nữa. Nhục hơn nữa anh ta còn bị bắt đi ra đồng chăn heo. Heo là con vật
ô uế, người Do-thái bị cấm đụng chạm và ăn thịt heo.
Nhưng có khổ sở, có nhục nhã mới biết “mở mắt”. Người con thứ bấy giờ hồi
tâm tự nhủ : “Biết bao nhiêu người làm
công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng
lên, đi về cùng cha” (Lc 15,17-18).
Người con
thứ trở về nhà cha, chỉ vì cái bụng đói, vì chén cơm manh áo, vì cơm dư gạo thừa
của nhà cha, chứ anh chưa cảm được lòng bao dung tha thứ của người cha. Anh đâu
có biết rằng khi anh chưa trở về, thì người cha đã nhớ anh từng giây từng phút.
Hằng ngày ông ra cổng ngóng trông anh về. Vì thế, “anh ta còn ở đằng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương,
chạy ra, ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để” (15,20).
Anh cũng đâu ngờ rằng người cha thương anh hơn anh nghĩ. Anh định nói : “Con đắc tội với Trời, và với cha, chẳng còn
đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Anh mới nói tới câu : ‘chẳng còn đáng gọi
là con cha nữa’, thì cha anh đã như bịt miệng anh lại, không cho anh nói
câu : “Xin coi con như một người làm công
cho cha vậy”.
Người cha vẫn coi anh là con, chứ không coi anh là người làm công, là đầy
tớ. Ông gọi các người làm đến và bảo : “Mau
đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu (áo tượng trưng địa vị làm con), xỏ nhẫn vào
ngón tay (nhẫn nói đến uy quyền), xỏ dép vào chân cậu (dép dành cho người tự
do, người nô lệ đi chân không), rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng
ta mở tiệc ăn mừng, vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại
tìm thấy” (15,22-24).
Trái với lòng bao dung và quảng đại của người cha, lòng của người con cả
thật hằn học và bủn xỉn.
Anh nói với cha anh : “Thằng con của
cha đó” (15,30), anh không còn nhận nó là em của anh, và anh là anh của nó
nữa. Người cha đâu có kể tội, lên án; còn anh, anh kể tội và lên án em mình : “Thằng con của cha đó…đã nuốt hết của cải của
cha với bọn điếm” (15,30). Cha anh giết bê béo ăn mừng; còn anh lại nổi
giận, không vào nhà dự tiệc mừng. Cha anh ra mời, anh cũng không thèm vào.
Cứ tưởng từ xưa tới nay, anh ở trong nhà, anh làm việc vì tình nghĩa cha
con, vì tình thảo hiếu đền ơn; hóa ra anh là người ngòai nhà, anh là người làm
công, nên nay anh đòi trả công. Anh nói : “Đã
bao nhêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao
giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (15,29). Anh
sống vì tiền bạc, chứ không vì tình nghĩa.
Chúa Giê-su kể câu chuyện “Người Cha Nhân Hậu”, khi những người Pha-ri-sêu
và kinh sư thấy những người thu thuế và tội lỗi năng lui tới với Chúa (15,1),
như thánh Lu-ca mở đầu câu chuyện : “Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư xầm xì
với nhau : ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (15,2
Ai nghe câu chuyện này cũng hiểu :
người cha là Thiên Chúa, người con thứ là người tội lỗi, và người con cả là
những người Pha-ri-sêu và kinh sư.
Chúa Giêsu cũng không chỉ kể một câu chuyện “Người Cha Nhân Hậu”, mà trước
đó Chúa đã kể hai câu chuyện “Con Chiên Lạc” và “Đồng Bạc Bị Mất”.
Con chiên lạc tượng trưng cho của cải, của cải chỉ có gía trị 1 phần 100, 1
trên 100 con chiên.
Đồng bạc bị mất tượng trưng cho tiền bạc, tiền bạc giá trị hơn, song cũng
chỉ là 1 phần 10, 1 trên 10 đồng bạc.
Người con thứ tượng trưng cho người tội lỗi, dù tội lỗi tầy trời cũng vẫn
có giá trị gấp bội, 1 phần 2, 1 trên 2 đứa con.
Chiên chỉ có giá trị 1 phần 100 mà còn đi tìm; đồng bạc chỉ có giá trị 1
phần 10 mà còn đi tìm, thì huống hồ là người tội lỗi gía trị 1 phần 2, làm sao
không đi tìm ?
Qua câu chuyện “Người Cha Nhân Hậu”, chúng ta mới thấy lòng Chúa khoan dung
và tha thứ; trái lại lòng con người chúng ta vừa hẹp hòi, lại vừa nhẫn tâm.
Xin thánh Giu-se giúp chúng ta trở về với Chúa.
18-3-2007
-----------------
CN.4.MC.C
“Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”. Đó là lời đáp ca của Chúa nhật IV
Mùa Chay hôm nay. Qua những biến cố cuộc đời của chính mình, chắc hẳn chúng ta đã
cảm nghiệm được Chúa tốt lành. Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay đã cho chúng ta
biết dân Do Thái, thánh Phao-lô và người con hoang đàng đã cảm nghiệm được Chúa
tốt lành.
Bài đọc 1 : Sách Xuất Hành đã kể lại lễ Vượt Qua đầu tiên,
khi người Do-thái ra khỏi nước Ai-cập như sau : “Đức Chúa phán với ông Mô-sê và A-ha-ron trên đất Ai-cập...Hãy nói với
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en :…Ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình,
mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người không ăn hết một con, thì chung với người hàng
xóm gần nhà mình nhất, tùy theo số người… Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là
con đực, không qúa một tuổi…Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi
toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên
khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn
với bánh không men và rau đắng…Các ngươi phải ăn thế này : lưng thắt gọn, chân đi
dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã : đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa”
(Xh 12,1-11).
Sách Xuất Hành kể tiếp : “Ông Mô-sê nói
: Khi được vào đất mà Đức Chúa ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ
nghi lễ đó. Khi con cháu anh em hỏi anh
em : ‘Nghi lễ này có ý nghĩa gì’, anh em sẽ trả lời : Đó là lễ Vượt Qua mừng Đức
Chúa, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập khi Người đánh
phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn” (Xh 12,25-27).
Lễ Vượt Qua đầu tiên trong sách Xuất Hành dưới thời ông Mô-sê là lễ mừng “vượt
qua” cảnh nô lệ Ai cập. Lễ Vượt Qua trong bđ1 thời ông Giô-suê là lễ mừng được
vào xứ Ca-na-an. Chúng ta biết sách Giô-suê được hoàn thành trong thời dân Do-thái
bị lưu đày bên Ba-by-lon. Sách kể lại cuộc hành trình vào đất Ca-na-an và phân
chia đất đai cho 12 chi tộc, để nói lên Thiên Chúa đã giữ lời hứa với các tổ phụ
và ông Mô-sê. Vậy bây giờ, tuy sống trong cảnh lưu đày mất nước, dân Do- thái hãy
vững tin vào lời hứa của Chúa, sẽ có ngày Chúa ra tay giải thoát và cho trở về
lại với xứ sở quê hương, miễn là trung thành với Lề luật của Chúa. Qủa thật, 50
năm sau, Chúa đã giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon và cho trở về xây dựng
lại Đền thờ Giê-ru-sa-lem và quê hương.
Bài Tin Mừng : Người ta thường đặt
tên cho câu chuyện trong bài Tin Mừng thánh lễ hôm nay là “Người con hoang đàng”, nhưng đúng hơn phải gọi tên cho câu chuyện là
“Người cha nhân hậu”. Có nhà Thánh Kinh còn đặt tên là “Người cha có hai người con”, nghĩa là một
đứa cảm nghiệm được lòng cha, một đứa thì
không.
Qua câu chuyện, người con út đã cảm nghiệm được lòng cha tốt lành biết mấy.
Người con út tội lỗi ngập đầu, nhưng người cha tha hết.
Tội thứ nhất là : theo tục lệ, chỉ khi người cha chết mới được chia gia tài,
người con cả được 2/3, người con út được 1/3. Cha còn sống mà đòi chia gia tài,
người con út đã hành động chẳng khác gì muốn cho cha mình chết đi cho rồi.
Tội thứ hai là phung phí của cải, mà người anh cho là tội “nuốt hết của cải của cha với bọn điếm”
(Lc 15,30).
Người con út biết tội mình qúa nặng, nên khi trở về chỉ dám xin cha “coi như một người làm công cho cha”, chứ
không “đáng gọi là con” (15,19). Nhưng,
lòng thương của cha vượt qúa ý nghĩ của anh, anh đã không ngờ cha anh tốt lành
vô cùng : “ôm cổ anh và hôn lấy hôn để”
(15.20). Thấy cha thương qúa đỗi như vậy, anh chỉ có thể nói được “Con đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa”, anh không thể nói thêm “xin coi con như một người làm công cho cha”. Nói thêm là phụ lòng
cha, lòng cha yêu thương và tha thứ.
Hơn nữa, người cha đã mong mỏi đứa con trở về từ lâu, nên khi thấy con đã đủ,
không cần con phải xin lỗi, phải phân trần. Chẳng những không coi con là người
làm công, người cha còn trả lại quyền làm con cho anh. Người cha bảo đầy tớ : “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ
nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu” (15,22). Quần áo biểu tượng cho phẩm
giá, nhẫn biểu tượng cho quyền bính, còn dép chỉ dành cho người tự do, nô lệ đi
chân không. Rồi người cha bảo “đi bắt con
bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng” (15,23).
Người ta thường kể câu chuyện đến đó là hết, quên đi phần người anh cả. Người
anh cả ở ngoài đồng về “nghe thấy tiếng đàn
ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì” (15,25-26).
Khi biết là cha mở tiệc ăn mừng thằng em trở về, thì “nổi giận và không chịu vào nhà” (15,27-28). Cha ra mời, anh cũng không
vào. Anh không thể chung vui, không thể mừng đứa em “đã chết, nay sống lại; đã mất nay lại tìm thấy” (15,32).
Người con út đã cảm nghiệm được người cha “tốt lành biết mấy”, còn người
anh không cảm nghiệm được. Cảm nghiệm được lòng cha, người con út chỉ đáng là
người làm công thì nay được nhận làm con. Không cảm nghiệm được lòng cha, người
anh là con thì nay tự mình nhận là người làm công. Là người làm công thì chỉ
coi cha là ông chủ phải trả công cho mình : “Đã bao năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa
bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (15,29),
và coi người em là người dưng nước lã, không phải là em mình : “Còn thằng con cha đó” (15,30).
Tại sao người em cảm nghiệm được lòng cha, còn người anh thì không ?
1- Vì người em nhận ra tội lỗi của mình : “Con thật đắc tội với Trời và
với cha” (15,18). Còn người anh không nhận ra tội mình, chỉ nhìn thấy tội của
người em. Người anh giống như những người Pha-ri-sêu và các kinh sư xầm xì với
nhau về Chúa Giê-su : “Ông này đón tiếp
phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (15,2-3). Không nhận ra tội, thì cũng
không nhận ra lòng cha tốt lành.
2- Vì người em đã phải sống trong thảm cảnh xa cha : “Phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, … sai anh ra đồng chăn heo,…ao ước lấy đậu muồng heo ăn
mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho, …phải chết đói ở đây” (15,15-17).
Heo là vật ô uế. Người Do thái không được nuôi heo, mà cũng không được ăn thịt
heo. Phải đi chăn heo, ăn cám heo là nỗi nhục, không còn gì là phẩm giá. Có xa
nhà mới nhớ nhà. Có bệnh tật mới qúi sức khoẻ. Đau khổ đôi khi cũng giúp con người
đứng lên, làm lại cuộc đời.
Cuốn phim “ The Passion of Christ” (Cuộc Thương khó của Chúa Kitô) là
cuốn phim ăn khách nhất hiện nay. Đạo diễn là ông Mel Gibson. Ông đẹp trai. Ông
mong là một tài tử nổi tiếng. Ông bị bọn cướp đánh. Mặt mũi trở nên xấu xí. Ông
buồn. Ông muốn đi tự tử. Ông vào nhà thờ. Ông gặp được một linh mục. Linh mục
an ủi ông và giúp ông sửa lại khuôn mặt. Ông trở thành một tài tử nổi tiếng của
Hollywood. Tiền nhiều và tiếng tăm làm ông sa đọa. Ông nghiện rượu. Ông đọc một
cuốn sách do một nữ tu viết vào thế kỷ 18. Ông làm lại cuộc đời. Ông hứa sẽ làm
một cuốn phim, để biểu lộ đức tin và diễn tả cuộc thương khó của Chúa đã chịu vì
tội lỗi loài người.
Bài đọc 2 : Thánh Lu-ca còn kể
hai câu chuyện nữa là “Con chiên lạc”
và “Đồng bạc bị mất”, nhưng câu chuyện
“Người cha có hai người con” nói lên
lòng Chúa tốt lành hơn cả, vì con chiên chỉ có giá trị 1/100, đồng bạc là 1/10,
còn con người là 1/2. Con người có giá trị cao vời. Chính vì thế, trong bđ2, thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh
Phao-lô đã nói lên lòng Thiên Chúa tốt lành : sai Chúa Ki-tô xuống thế để tha tội
cho loài người : “Đấng chẳng biết tội là
gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm
cho chúng ta nên công chính” (2Cr 5,21).
Ước gì trong Mùa Chay này chúng ta xin thánh Giu-se giúp chúng ta cảm nghiệm
được Chúa tốt lành, Chúa thương chúng ta.
PH.
21-3-2004
0 nhận xét :
Đăng nhận xét